ức chế

Chúng tôi giải thích sự ức chế là gì và nguyên nhân của nó có thể là gì. Ngoài ra, ý nghĩa của nó trong tâm lý học, sinh học và luật pháp.

Sự ức chế có thể do các yếu tố bên ngoài hoặc bên trong cơ thể.

Ức chế là gì?

Sự ức chế, tác động của việc kìm hãm hoặc ngăn cản bản thân, là hành động ngăn cản, kìm nén hoặc ngăn cấm một hành động, một thói quen hoặc một trường cao đẳng. Thuật ngữ này được sử dụng thường xuyên trong các lĩnh vực tâm lý, các hóa sinhbên phải, và xuất phát từ động từ Latinh ức chế, và trước đây nó được dùng để chỉ hành động chèo chống lại chuyển động của một con thuyền, nhằm làm chậm lại hoặc dừng bước tiến của nó.

Sự ức chế có thể được thúc đẩy bởi các yếu tố hoặc sức mạnh bên ngoài cá nhân, hoặc bởi các yếu tố vốn có đối với bản thân anh ta, và trong trường hợp thứ hai, có thể nói về sự tự ức chế. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, kết quả là sự chậm trễ, cản trở hoặc cản trở của một hành động hoặc hạnh kiểm, mà sau đó có thể được coi là bị ức chế.

Ức chế tâm lý

Theo thuật ngữ tâm lý, ức chế được hiểu là sự đình chỉ hoặc kìm nén một hành vi ở cá nhân, do yếu tố bối cảnh bên ngoài, hoặc do yếu tố tình cảm, tâm linh bên trong. Hiện tượng tinh thần này có thể được hiểu theo hai cách rất khác nhau, một bên là "tích cực" hơn và một bên là "tiêu cực" hơn, tức là, một là có lợi cho hoạt động xã hội và một là cản trở nó.

  • Trong trường hợp thứ nhất, ức chế được hiểu là một chức năng điều hành nhận thức điều đó cho phép chúng ta không phản ứng một cách tự động hoặc vô thức với một kích thích, nhưng chúng ta có thể ức chế một số phản ứng nhất định để thực hiện chúng vào một thời điểm thuận lợi hơn hoặc triệt tiêu chúng và không cho chúng một lối thoát. Đây là chìa khóa cho hòa bình xã hội và đối xử trong cộng đồng.
  • Ngược lại, trong trường hợp thứ hai, ức chế được hiểu là một yếu tố tâm lý ác độc, cản trở hoạt động xã hội tự do và khiến cá nhân kìm nén. biểu thức hoàn toàn bình thường với tính cách của anh ấy. Những người bị ức chế này có xu hướng rút lui và tự cô lập mình với xã hội, do hậu quả của một số loại chấn thương xã hội hoặc thiếu lòng tự trọng cần thiết để khẳng định mình trước mặt người khác.

Sự ức chế trong sinh học

Sự ức chế cạnh tranh ngăn cản cơ chất liên kết với enzym.

Trong lĩnh vực sinh vật học và đặc biệt là hóa sinh, khái niệm ức chế áp dụng cho sự cản trở hoặc gián đoạn của các phản ứng hóa học được kiểm soát, do hậu quả của hành động của một số chất đạm (enzim, ví dụ) hoặc các chất dược lý. Trên thực tế, đây là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực y tế và dược lý: nhiều loại thuốc ức chế một loại protein nhất định hoặc một quá trình nhất định.

Do đó, ức chế sinh hóa có thể thuộc hai loại khác nhau:

Sự ức chế enzyme, bao gồm hoạt động của phân tử có khả năng liên kết cụ thể với một enzym (nghĩa là, một protein chuyên biệt có chức năng xúc tác trong cơ thể), để giảm cường độ hoạt động của nó, tức là làm suy yếu chúng. Loại hoạt động này rất phổ biến trong thuốc trừ sâu và thuốc, vì sau khi được đưa vào cơ thể sinh vật, các phân tử này sẽ sửa đổi kịp thời hoạt động của các enzym tự nhiên, tốt hơn hoặc xấu hơn. Các quá trình ức chế này lần lượt có thể gồm ba loại:

  • Ức chế cạnh tranh, khi chất ức chế thay thế các chất nền thông thường mà enzym tương tác, ngăn cản nó thực hiện vai trò thông thường của mình.
  • Ức chế không cạnh tranh, khi chất ức chế không ngăn cản sự tiếp xúc giữa cơ chất và enzym, nhưng nó làm giảm hiệu quả của nó thông qua các quá trình sinh hóa song song.
  • Ức chế hỗn hợp, khi chất ức chế không ngăn cản sự liên kết của cơ chất và enzym, nhưng hoạt động như một cầu nối giữa chúng, nghĩa là nó điều chỉnh hoặc điều chỉnh tương tác nói trên, miễn là nồng độ cơ chất cho phép.

Trong khi đó, sự ức chế bên là một quy trình tế bào phi enzym, trong đó tủ nó ức chế một tế bào liền kề khác trong quá trình tăng trưởng, biệt hóa hoặc hoạt động của nó, do đó thực hiện một kiểu kiểm soát tế bào thông qua con đường tín hiệu Notch (nghĩa là giao tiếp giữa các tế bào thông qua trao đổi các protein xuyên màng).

Sự ức chế của pháp luật

Trong lĩnh vực pháp luật và hành động pháp lý, ngăn cản được hiểu là hành động ngăn cản một phiên tòa tư pháp (thẩm phán, tòa án, v.v.) thực hiện vai trò của mình trong một vụ án cụ thể, xét rằng nó bị cản trở do tại mất vô tư hoặc thiếu năng lực.

!-- GDPR -->